Hiện nay xuất phát từ nhiều lý do mà nhiều người có ý muốn xóa quan hệ huyết thống với cha mẹ. Ban đầu nghĩ việc này là việc vô nhân đạo tuy nhiên cần xem xét ở nhiều khía cạnh khác nhau. Vậy xóa quan hệ huyết thống với cha mẹ có được không? Pháp luật Việt Nam có quy định những trường hợp nào được xóa quan hệ huyết thống với cha mẹ? Hãy theo dõi bài viết dưới đây của chúng tôi để biết thêm thông tin chi tiết nhé!
Căn cứ pháp lý
- Bộ luật Dân sự 2015;
- Luật nuôi con nuôi 2010;
- Luật hôn nhân và gia đình 2014.
Quyền nhân thân theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015
Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái được xem là quyền nhân thân và không thể chuyển giao trong dân sự. Điều 39 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:
Điều 39. Quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình
1. Cá nhân có quyền kết hôn, ly hôn, quyền bình đẳng của vợ chồng, quyền xác định cha, mẹ, con, quyền được nhận làm con nuôi, quyền nuôi con nuôi và các quyền nhân thân khác trong quan hệ hôn nhân, quan hệ cha mẹ và con và quan hệ giữa các thành viên gia đình.
Con sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha, mẹ đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với cha, mẹ của mình.
2. Cá nhân thực hiện quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình theo quy định của Bộ luật này, Luật hôn nhân và gia đình và luật khác có liên quan.
Như vậy giữa cha mẹ có quyền ly hôn với nhau để chấm dứt mối quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật, và con cái có quyền xác định cha mẹ của mình, quyền và nghĩa vụ của con đối với cha mẹ không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha mẹ. Hay nói cách khác dù cha mẹ chưa đăng kí kết hôn, hay đã ly hôn theo quyết định của Toà án thì con cái vẫn có quyền và nghĩa vụ đối với cha mẹ.
Có thể xóa quan hệ huyết thống giữa cha mẹ và con được không ?
Con có quyền chấm dứt quan hệ huyết thống với bố mẹ không ?
Hiện tại pháp luật Việt Nam không có quy định về việc xóa quan hệ huyết thống hay chấm dứt quan hệ huyết thống giữa con cái với cha mẹ. Hiện không có văn bản pháp luật nào quy định về việc giải quyết chấm dứt quan hệ cha, mẹ, con giữa cha đẻ, mẹ đẻ và con đẻ. Khi người con đã đạt đến độ tuổi nhất định có đầy đủ hành vi dân sự (đã thành niên) thì có quyền tự quyết định về hành vi, về cuộc sống riêng của mình, khi đó cha mẹ chỉ là những người thực hiện quyền của cha mẹ, từ sự dẫn dắt chủ động, trực tiếp sang hướng dẫn, gợi ý, cố vấn, giúp đỡ,… cuộc sống của con.
Quan hệ giữa cha đẻ, mẹ đẻ và con đẻ hình thành một cách tự nhiên bằng con đường huyết thống. Do đó, sự gắn bó tình cảm và mối liên hệ giữa cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ là quy luật tự nhiên, có tính bền vững bất biến bởi nguồn gốc huyết thống, vì vậy, quan hệ huyết thống tự nhiên không thể chấm dứt theo ý chí chủ quan của con người. Pháp luật cũng không thể định đoạt việc chấm dứt quan hệ huyết thống vì điều đó trái với lẽ tự nhiên.
Hiện tại pháp luật chỉ có quy định về việc chấm dứt quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi quy định tại điều 78 Luật hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13 của Quốc hội, các quy định tại Luật nuôi con nuôi.
Tuy nhiên, do tính chất thiêng liêng của quan hệ cha, mẹ, con nên việc chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi cũng chỉ được thực hiện trong 3 trường hợp nhất định, đó là:
- Cha mẹ nuôi và con nuôi đã thành niên tự nguyện chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi;
- Con nuôi bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha, mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha, mẹ nuôi hoặc có hành vi phá tán tài sản của cha, mẹ nuôi;
- Cha mẹ nuôi đã có các hành vi xâm hại, lợi dụng con nuôi.
Mặt khác, việc chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi phải thực hiện theo thủ tục tư pháp và do Toà án giải quyết.
Nếu xin chấm dứt quan hệ cha, mẹ, con nuôi thì việc chấm dứt quan hệ này được dựa trên các căn cứ theo quy định tại Luật Nuôi con nuôi của Quốc hội, số 52/2010/QH12:
“Điều 25. Căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi
Việc nuôi con nuôi có thể bị chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
1. Con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi;
2. Con nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi hoặc con nuôi có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi;
3. Cha mẹ nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con nuôi; ngược đãi, hành hạ con nuôi;
4. Vi phạm quy định tại Điều 13 của Luật này.”
1. Cha mẹ nuôi.
“Điều 26. Tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi
2. Con nuôi đã thành niên.
3. Cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của con nuôi.
4. Cơ quan, tổ chức sau đây có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi khi có một trong các căn cứ quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 25 của Luật này:
a) Cơ quan lao động, thương binh và xã hội;
b) Hội liên hiệp phụ nữ.”
“Điều 27. Hệ quả của việc chấm dứt nuôi con nuôi
1. Quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi chấm dứt kể từ ngày quyết định chấm dứt nuôi con nuôi của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
2. Trường hợp con nuôi là người chưa thành niên hoặc đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động thì Tòa án quyết định giao cho cha mẹ đẻ hoặc tổ chức, cá nhân khác chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục vì lợi ích tốt nhất của người đó.
3. Trường hợp con nuôi được giao cho cha mẹ đẻ thì các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ đẻ đã chấm dứt theo quy định tại khoản 4 Điều 24 của Luật này được khôi phục.
4. Trường hợp con nuôi có tài sản riêng thì được nhận lại tài sản đó; nếu con nuôi có công lao đóng góp vào khối tài sản chung của cha mẹ nuôi thì được hưởng phần tài sản tương xứng với công lao đóng góp theo thỏa thuận với cha mẹ nuôi; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
5. Con nuôi có quyền lấy lại họ, tên của mình như trước khi được cho làm con nuôi.”
Nếu bạn là con nuôi đã thành niên, bạn có quyền yêu cầu tòa án giải quyết việc chấm dứt quan hệ cha mẹ, con trong trường hợp này.
“Điều 10. Thẩm quyền giải quyết yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi
Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.”
Bố mẹ có thể hủy quan hệ huyết thống với con không ?
Hiện nay quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình được quy định cụ thể trong Luât Hôn nhân và gia đình 2014. Cụ thể Điều 69 và Điều 70 quy định như sau:
Điều 69. Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ
1. Thương yêu con, tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập, giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội.
2. Trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
3. Giám hộ hoặc đại diện theo quy định của Bộ luật dân sự cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự.
4. Không được phân biệt đối xử với con trên cơ sở giới hoặc theo tình trạng hôn nhân của cha mẹ; không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động; không được xúi giục, ép buộc con làm việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Điều 70. Quyền và nghĩa vụ của con
1. Được cha mẹ thương yêu, tôn trọng, thực hiện các quyền, lợi ích hợp pháp về nhân thân và tài sản theo quy định của pháp luật; được học tập và giáo dục; được phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức.
2. Có bổn phận yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình.
3. Con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì có quyền sống chung với cha mẹ, được cha mẹ trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc.
Con chưa thành niên tham gia công việc gia đình phù hợp với lứa tuổi và không trái với quy định của pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
4. Con đã thành niên có quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, nơi cư trú, học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội theo nguyện vọng và khả năng của mình. Khi sống cùng với cha mẹ, con có nghĩa vụ tham gia công việc gia đình, lao động, sản xuất, tạo thu nhập nhằm bảo đảm đời sống chung của gia đình; đóng góp thu nhập vào việc đáp ứng nhu cầu của gia đình phù hợp với khả năng của mình.
5. Được hưởng quyền về tài sản tương xứng với công sức đóng góp vào tài sản của gia đình.
Đối chiếu với các quy định của pháp luật hiện nay thì rõ ràng chưa có căn cứ nào quy định về việc cha mẹ huỷ quan hệ gia đình với con cái và ngược lại con cái huỷ quan hệ cha con, mẹ con với mình.
Tuy nhiên đó là đối với quan hệ huyết thống, tức là đối với con ruột. Còn trường hợp nếu người con đó là con nuôi thì cha mẹ có quyền huỷ quan hệ nuôi con theo quy định của luật nuôi con nuôi 2010.
Kết luận về xóa quan hệ huyết thống
Như vậy trường hợp nếu con nuôi đã thành niên ( từ đủ mười tám tuổi trở lên – khoản 1 điều 20 BLDS); con bị kết án về tội cố ý xâm phạm sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi hoặc con nuôi có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi hoặc ngược lại; và vi phạm các điều cấm quy định tại điều 13 của luật này thì cha mẹ và con có thể huỷ quan hệ nuôi con nuôi trong trường hợp này. Hay nói cách khác nếu một trong 2 bên có các hành vi tại điều 25 thì một trong hai bên có quyền huỷ quan hệ cha con (mẹ con).
Quay lại vấn đề là đối với cha mẹ và con ruột thì không thể huỷ quan hệ vì chưa có điều luật điều chỉnh. Vậy để hạn chế thiệt hại trong một số trường hợp con cái gây ra thì phải làm gì ? Chúng ta có thể áp dụng một số cách sau đây:
- Nếu người con có vấn đề về khả năng nhận thức như đập đá, hít bóng, uống rượu bia thường xuyên thì cha mẹ nên yêu cầu Tòa án tuyên bố người con bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Khi đó mọi giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày.
- Nếu trường hợp người con vẫn bình thường, tỉnh táo nhưng có thói cờ bạc chẳng hạn thì theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay thì cha mẹ có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự gây ra. Trường hơp nếu con đã thành niên thì khi gây ra thiệt hại về tài sản như đánh bài, cá độ..v.v thì cha mẹ không có nghĩa vụ phải đứng ra trả thay cho con (trừ trường hợp trước đó đã đồng ý nhận bảo lãnh).
Ngoài ra nếu mục đích của việc “từ mặt con” là để khỏi cho con sau này được nhận thừa kế thì cha mẹ có thể làm di chúc định đoạt tài sản với nội dung tước quyền nhận di sản của con (trừ trường hợp con chưa thành niên, hoặc thành niên nhưng không có khả năng lao động thì không thể truất quyền thừa kế của họ – Điều 644 BLDS).
Dù là cách nào đi chăng nữa thì đó cũng là những giải pháp liên quan đến tài sản, chứ về mặt quan hệ huyết thống thì không thể xoá bỏ nếu đó là con ruột của mình.
Thông tin liên hệ
Trên đây là tư vấn về vấn đề “Xóa quan hệ huyết thống với cha mẹ có được không?” của Luật Sư Thanh Hóa. Chúng tôi hy vọng rằng những kiến thức chúng tôi chia sẽ sẽ có ích cho bạn đọc trong công việc và cuộc sống. Nếu có nhu cầu sử dụng dịch vụ về dịch vụ ly hôn nhanh…. Hãy liên hệ ngay tới Luật sư Thanh Hóa để được tư vấn, hỗ trợ một cách nhanh nhất. Hotline: 0833.102.102.
Mời bạn xem thêm bài viết:
- Dịch vụ đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại Thanh Hóa năm 2022
- Dịch vụ đăng ký bảo hộ logo tại Thanh Hóa trọn gói, giá rẻ
- Hướng dẫn soạn thảo mẫu hồ sơ ly hôn tại Thanh Hóa năm 2022
Câu hỏi thường gặp
Căn cứ Điều 7 Nghị định 123/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật hộ tịch quy định:
Điều kiện thay đổi, cải chính hộ tịch
1. Việc thay đổi họ, chữ đệm, tên cho người dưới 18 tuổi theo quy định tại Khoản 1 Điều 26 của Luật Hộ tịch phải có sự đồng ý của cha, mẹ người đó và được thể hiện rõ trong Tờ khai; đối với người từ đủ 9 tuổi trở lên thi còn phải có sự đồng ý của người đó.
2. Cải chính hộ tịch theo quy định của Luật Hộ tịch là việc chỉnh sửa thông tin cá nhân trong Sổ hộ tịch hoặc trong bản chính giấy tờ hộ tịch và chỉ được thực hiện khi có đủ căn cứ để xác định có sai sót do lỗi của công chức làm công tác hộ tịch hoặc của người yêu cầu đăng ký hộ tịch.
Theo đó, một người có thể thay đổi thông tin giấy khai sinh khi thuộc trường hợp trên.
Việc xóa tên cha mẹ trong giấy khai sinh chỉ có thể thực hiện trong trường hợp có sai sót do lỗi của công chức làm công tác hộ tịch hoặc của người yêu cầu đăng ký hộ tịch. Trường hợp xóa thông tin về cha mẹ trong Giấy khai sinh của con bạn phải có bản án, quyết định của Toà án xác nhận người đó không phải cha đẻ, mẹ đẻ của người này. Còn trường hợp muốn xóa tên cha mẹ đẻ được ghi đã đúng trong giấy khai sinh hiện nay là không thể thực hiện được.
Bỡi lẽ căn cứ khoản 1 Điều 39 Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau:
Quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình
1. Cá nhân có quyền kết hôn, ly hôn, quyền bình đẳng của vợ chồng, quyền xác định cha, mẹ, con, quyền được nhận làm con nuôi, quyền nuôi con nuôi và các quyền nhân thân khác trong quan hệ hôn nhân, quan hệ cha mẹ và con và quan hệ giữa các thành viên gia đình.
Con sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha, mẹ đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với cha, mẹ của mình.
2. Cá nhân thực hiện quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình theo quy định của Bộ luật này, Luật hôn nhân và gia đình và luật khác có liên quan.
Mà quyền nhân thân được quy định là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, căn cứ khoản 1 Điều 25 Bộ luật Dân sự 2015. Do đó quyền được xác định quan hệ cha mẹ con là quyền không thể tách rời và không bị tác động bởi ý chí chủ quan của người nào.
Căn cứ Điều 25 Luật Nuôi con nuôi 2010 có quy định:
Căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi
Việc nuôi con nuôi có thể bị chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
1. Con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi;
2. Con nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi hoặc con nuôi có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi;
3. Cha mẹ nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con nuôi; ngược đãi, hành hạ con nuôi;
4. Vi phạm quy định tại Điều 13 của Luật này.
Cụ thể về vi phạm quy định tại Điều 13 Luật Nuôi con nuôi 2010 quy định các hành vi bị cấm:
Các hành vi bị cấm
1. Lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi, bóc lột sức lao động, xâm hại tình dục; bắt cóc, mua bán trẻ em.
2. Giả mạo giấy tờ để giải quyết việc nuôi con nuôi.
3. Phân biệt đối xử giữa con đẻ và con nuôi.
4. Lợi dụng việc cho con nuôi để vi phạm pháp luật về dân số.
5. Lợi dụng việc làm con nuôi của thương binh, người có công với cách mạng, người thuộc dân tộc thiểu số để hưởng chế độ, chính sách ưu đãi của Nhà nước.
6. Ông, bà nhận cháu làm con nuôi hoặc anh, chị, em nhận nhau làm con nuôi.
7. Lợi dụng việc nuôi con nuôi để vi phạm pháp luật, phong tục tập quán, đạo đức, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Theo quy định trên, có thể thấy quan hệ nuôi dưỡng có thể bị chấm dứt khi có yêu cầu của các bên và rơi vào những trường hợp nêu trên mà không phải bất kỳ trường hợp nào con cái cũng đều có thể từ mặt cha mẹ. Bởi theo quy định, con cái có nghĩa vụ yêu thương, chăm sóc cha mẹ.
Theo Điều 78 Luật Hôn nhân gia đình 2014, quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có thể chấm dứt trong trường hợp có quyết định của Tòa án, cụ thể:
– Cha nuôi, mẹ nuôi, con nuôi có quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ, con được quy định trong Luật Hôn nhân gia đình 2014 kể từ thời điểm quan hệ nuôi con nuôi được xác lập theo quy định của Luật nuôi con nuôi.
Trong trường hợp chấm dứt việc nuôi con nuôi theo quyết định của Tòa án thì quyền, nghĩa vụ của cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi chấm dứt kể từ ngày quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
+ Quyền, nghĩa vụ của cha đẻ, mẹ đẻ và con đã làm con nuôi của người khác được thực hiện theo quy định của Luật nuôi con nuôi.
+ Quyền, nghĩa vụ giữa cha đẻ, mẹ đẻ và con đẻ được khôi phục kể từ thời điểm quan hệ nuôi con nuôi chấm dứt.
Trong trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ không còn hoặc không có đủ điều kiện để nuôi con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì Tòa án giải quyết việc chấm dứt nuôi con nuôi và chỉ định người giám hộ cho con theo quy định của Bộ luật dân sự.